Thực tế những năm gần đây, trong hoạt động Thừa phát lại, chúng tôi gặp khá nhiều trường hợp như: đương sự cần xác nhận nợ, xác nhận một nghĩa vụ nhưng đối tác không muốn ký văn bản xác nhận, hoặc ra Tòa làm chứng; trường hợp cung cấp hình ảnh về một vụ tai nạn giao thông, hoặc tường hợp các trang web đăng tin vi phạm bản quyền sản phẩm hoặc sở hữu trí tuệ v.v… đã tìm đến Thừa phát lại. Văn phòng Thừa phát lại đáp ứng yêu cầu của các đương sự thu thập chứng cứ đúng quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 93 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS): Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho tòa trong quá trình tố tụng.
Theo quy định của Điều 95 BLTTDS về xác định chứng cứ thì những tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
Các thông điệp, dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
Đối chiếu quy định này có thể thấy trường hợp một băng ghi âm là tài liệu nghe được được coi là một nguồn chứng cứ. Băng ghi âm do bạn cung cấp chỉ được Tòa án xem là chứng cứ nếu “được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan của việc thu âm, thu hình đó” theo quy định tại Điều 95 BLTTHS. Có nghĩa là băng ghi âm đó phải được xuất trình cùng biên bản làm việc về nội dung cụ thể trong băng ghi âm, nguồn gốc xuất xứ của băng ghi âm. Nếu không đáp ứng các điều kiện trên, băng ghi âm do bạn cung cấp cho Tòa chỉ được xem là nguồn tài liệu để Tòa tham khảo và cần sử dụng thêm các phương pháp khác để xác định có phải là chứng cứ hay không như giám định giọng nói trong băng ghi âm...
Từ các quy định trên có thể thấy rằng, bạn sẽ gặp trở ngại lớn trong việc chứng minh nguồn gốc và tính xác thực của băng ghi âm nhất là trong thời đại công nghệ thông tin hiện đại ngày nay. Bạn không thể giao nộp chiếc máy, ghi âm, điện thoại có chức năng ghi âm, ghi hình cho Tòa án hoặc cho Luật sư. Vậy, có cơ quan hay tổ chức nào có thể hỗ trợ bạn trong trường hợp này? Câu trả lời là các văn phòng Thừa phát lại.
Thừa phát lại được nhà nước bổ nhiệm trao cho các thẩm quyền mang tính quyền lực công mà trong đó có thẩm quyền lập vi bằng. Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác.
Vi bằng ghi nhận sự kiện cung cấp chứng cứ ghi âm, ghi hình:
Trong vụ tai nạn giao thông, người đại diện hợp pháp của người bị hại được một người tên là Q. cung cấp một số hình ảnh về hiện trường vụ tai nạn giao thông được mà ông Q đã chụp được. Trong trường hợp này cùng với việc giao nộp băng ghi hình đó, người đại diện hợp pháp của người bị hại phải xuất trình cho Toà án bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan đến việc thu âm, thu hình đó .
Khi có người yêu cầu, bằng các nghiệp vụ chuyên môn và thẩm quyền của mình Thừa phát lại sẽ lập vi bằng ghi nhận sự kiện hành vi ông Q. cung cấp nội dung và nguồn gốc hình ảnh ghi được từ một vụ tai nạn giao thông đó …Trong vi bằng, Thừa phát lại sẽ mô tả lại buổi làm việc, xác nhận sự kiện đương sự cung cấp các thông tin, nôi dung và nguồn gốc đĩa ghi âm, ghi hình hình đó.
Kèm theo vi bằng là hình ảnh ông Q. đang truy cập hình ảnh từ điện thoai; một số hình ảnh do ông Q. truy cập và cung cấp nội dung liên quan từ điện thoại. Vi bằng được luật sư- người đại diện hợp pháp của bị hại sử dụng làm chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình.
Vi bằng được đăng ký tại Sở Tư pháp thành phố Hà Nội và có giá trị chứng cứ trước Tòa hoặc các quan hệ pháp lý khác, là cơ sở vững chắc giúp bạn bảo vệ quyền lợi của mình./.
|